Siêu âm tim 3d qua thực quản là gì? Các công bố khoa học về Siêu âm tim 3d qua thực quản

Siêu âm tim 3D qua thực quản là một phương pháp siêu âm được sử dụng để xem mô hình chi tiết của tim và các cấu trúc xung quanh thông qua việc chèn que siêu âm ...

Siêu âm tim 3D qua thực quản là một phương pháp siêu âm được sử dụng để xem mô hình chi tiết của tim và các cấu trúc xung quanh thông qua việc chèn que siêu âm thẳng qua thực quản. Với phương pháp này, hình ảnh siêu âm có thể thu lấy từ góc độ 360 độ xung quanh tim, giúp bác sĩ có cái nhìn toàn diện và chi tiết hơn về cấu trúc, chức năng và chẩn đoán các vấn đề về tim mạch. Phương pháp này phổ biến trong lĩnh vực tim mạch và được sử dụng để làm rõ chẩn đoán và theo dõi tiến triển của các bệnh tim, nhưnh bệnh van tim, bệnh lý nhĩ thất, dị dạng tim và các vấn đề hình thành giãn nở tim.
Siêu âm tim 3D qua thực quản sử dụng một cây que siêu âm mỏng và linh hoạt được chèn qua thực quản để tạo ra hình ảnh chi tiết của tim. Que siêu âm sẽ được đặt qua mũi dạ dày và đi qua thực quản cho đến khi nó đạt gần với tim.

Khi que siêu âm đã đạt vị trí, các sóng siêu âm sẽ được phát ra, và sự phản xạ của sóng này từ các cấu trúc bên trong tim sẽ được ghi lại và xử lý bởi máy quét siêu âm. Máy quét siêu âm sau đó sẽ tạo thành các hình ảnh 3D của tim và các cấu trúc lân cận như van tim, các bộ phận nhĩ, các mạch máu và các cấu trúc liên quan khác.

Phương pháp siêu âm tim 3D qua thực quản cho phép bác sĩ xem tim từ nhiều góc độ và góc nhìn khác nhau. Điều này giúp bác sĩ đánh giá chất lượng và chức năng của van tim, xác định kích thước và hình dạng của các phần của tim, nhận biết các dị dạng tim, các khối u và các vấn đề tim mạch khác. Nó cũng có thể giúp bác sĩ theo dõi tiến triển của bệnh tim và hiệu quả của điều trị.
Trong quá trình siêu âm tim 3D qua thực quản, cây que siêu âm được sử dụng là một bộ cảm biến nhạy cảm có thể quay và xoay ở các góc đa phương hợp. Bác sĩ sau đó sẽ điều khiển que siêu âm và định vị nó trong tim của bệnh nhân.

Khi que siêu âm được đặt trong tim, nó sẽ phát ra sóng siêu âm và ghi lại các phản xạ từ các cấu trúc bên trong tim. Hệ thống máy quét siêu âm sẽ tiếp nhận các sóng phản xạ này và xử lý chúng để tạo thành hình ảnh 3D của tim.

Thông qua cấp độ chi tiết cao và độ rõ nét, phương pháp siêu âm tim 3D qua thực quản cho phép bác sĩ xem tim và các cấu trúc xung quanh từ nhiều góc độ khác nhau. Điều này giúp bác sĩ phân tích chính xác hình dạng, kích thước và chức năng của tim, nhận biết và đánh giá các bất thường, như sự giãn nở, dị dạng, khối u và các vấn đề về van tim.

Phương pháp này mang lại lợi ích quan trọng trong lĩnh vực chẩn đoán và theo dõi các bệnh tim mạch, giúp bác sĩ đưa ra quyết định điều trị chính xác và theo dõi hiệu quả của điều trị theo thời gian.

Danh sách công bố khoa học về chủ đề "siêu âm tim 3d qua thực quản":

ĐẶC ĐIỂM SIÊU ÂM TIM 2D/3D VÀ CƠ CHẾ HỞ VAN HAI LÁ Ở CÁC BỆNH NHÂN CÓ CHỈ ĐỊNH PHẪU THUẬT TẠI BỆNH VIỆN BẠCH MAI
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 526 Số 1A - 2023
Đặt vấn đề: Siêu âm tim 3D, đặc biệt là siêu âm tim 3D qua thực quản (3D TEE) với đầu dò đa chiều, cùng một lúc cắt được nhiều mặt cắt, giúp dựng hình van hai lá ba chiều và giúp quan sát van theo góc nhìn của phẫu thuật viên. Mục tiêu: Khảo sát đặc điểm siêu âm tim 2D/3D và cơ chế hở van hai lá ở các bệnh nhân có chỉ định phẫu thuật tại Bệnh Viện Bạch Mai. Đối tượng và phương pháp: Các bệnh nhân HoHL có chỉ định phẫu thuật trong thời gian từ 09/2017-06/2018. Tất cả các bệnh nhân đều được khám lâm sàng và được làm siêu âm âm tim qua thành ngực và qua thực quản 2D/3D tại Viện Tim Mạch Quốc Gia, Bệnh Viện Bạch Mai trước khi được tiến hành sửa van hoặc thay van tại đơn vị phẫu thuật tim mạch của Bệnh Viện Bạch Mai. Kết quả nghiên cứu được xử lý bằng phần mềm SPSS 20.0 trên máy vi tính với các thuật toán thống kê. Kết quả: Tổng số 44 bệnh nhân được đưa vào nghiên cứu. Tỷ lệ nam/nữ bị HoHL trong nghiên cứu là 2/1. Tuổi trung bình của bệnh nhân là 54,1 ± 13,1. Đường kính nhĩ trái, đường kính thất trái, đường kính thất phải, đường kính vòng van hai lá đều lớn hơn so với trị số bình thường. Đường kính cổ dòng hở trên 2D TTE trung bình là 0.69 ± 0,25 cm, Đường kính cổ dòng hở trên 2D TEE trung bình là 0,62 ± 0,21 cm. Diện tích HoHL trên 2D TTE trung bình là 8,05 ± 3,2 cm², trên 2D TEE trung bình là: 8,17 ± 3,4 cm². Diện tích lỗ hở hiệu dụng trên 2D TTE trung bình là: 0,65 ± 0,2 cm², trên 2D TEE trung bình là: 0,65 ± 0,2 cm². Diện tích cổ dòng hở trên 3D TEE trung bình là: 0,39 ± 0,11 cm2. Các bệnh nhân có chỉ định phẫu thuật có cả các tổn thương sa lá trước, sa lá sau, sa cả hai lá, gặp cả kiểu prolapse và kiểu flail. Thủng van chỉ gặp ở lá trước. Có cả sùi van hai lá và đứt dây chằng lá trước và đứt dây chằng lá sau. Có cả co rút dây chằng van hai lá. Siêu âm tim qua thực quản 3D (3D TEE) quan sát được nhiều tổn thương sùi hơn (27,6%) và nhiều tổn thương đứt dây chằng lá trước hơn (27,6%) so với siêu âm tim qua thành ngực 2D (2DTTE) và siêu âm tim qua thực quản 2D (2D TEE). Trong tổng số 44 bệnh nhân hở van hai lá thực tổn: HoHL do di động lá van quá mức (type II Carpentier) là chủ yếu có 41 bệnh nhân (93,2%), HoHL do di động lá van hạn chế do thấp (type IIIa Carpentier) có 3 bệnh nhân (6,8%). Kết luận: Siêu âm tim 2D/3D qua thành ngực và qua thực quản ở các bệnh nhân hở hai lá thực tổn có chỉ định phẫu thuật: tổn thương bộ máy van hai lá gặp nhiều nhất là các tổn thương ở lá van (sa van, sùi van, thủng van), sau đó là đến các tổn thương ở dây chằng van hai lá. Trong các tổn thương ở lá van thì hay gặp nhất là sa van kiểu flail, trong đó sa lá sau gặp nhiều hơn cả. Bệnh lý thoái hóa van đang dần thay thế cho các bệnh lý van tim hậu thấp.
#Hở hai lá #sa van hai lá #bệnh van tim #siêu âm tim 2D qua thực quản #siêu âm tim 3D qua thực quản.
NGHIÊN CỨU HÌNH THÁI VÀ DIỆN TÍCH LỖ VAN HAI LÁ BẰNG PHƯƠNG PHÁP SIÊU ÂM TIM 3D QUA THỰC QUẢN Ở BỆNH NHÂN HẸP HAI LÁ KHÍT CÓ CHỈ ĐỊNH NONG VAN BẰNG BÓNG QUA DA
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 525 Số 2 - 2023
Đặt vấn đề: Sự ra đời của siêu âm tim qua thực quản (SATQTQ 3D) những năm gần đây đã khẳng định vai trò của siêu âm tim trong việc đánh giá các bệnh lý van tim. SATQTQ3D với đầu dò đa chiều ma trận, cùng một lúc cắt được nhiều mặt cắt, có thể giúp quan sát được hình ảnh ba chiều van hai lá từ mặt nhĩ và mặt thất. Một số nghiên cứu trên thế giới đã cho thấy SATQTQ3D  có giá trị hơn siêu âm 2D qua thành ngực (SATQTN2D) trong việc xác định hình thái và diện tích van hai lá. Hiện nay ở Việt Nam chưa có nghiên cứu về vấn đề này. Mục tiêu:. Khảo sát hình thái và diện tích van hai lá trên siêu âm tim 2D qua thành ngực, siêu âm tim 2D/3D qua thực quản ở bệnh nhân hẹp hai lá  khít có chỉ định nong van hai lá bằng bóng qua da. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Gồm 60 bệnh nhân đã được chẩn đoán xác định là hẹp hai lá (HHL) do tổn thương do thấp, có chỉ định nong van hai lá (NVHL) bằng bóng, được thu thập các số liệu lâm sàng, cận lâm sàng, SATQTN2D,  SATQTQ2D/3D trước  nong van, sau đó được tiến hành NVHL bằng bóng qua da. Kết quả:  Diện tích van hai lá trên SATQTQ 3D thấp hơn diện tích VHL đánh giá bằng phương pháp SATQTN 2D (0,88±0,22 so với  1,01±0,19 cm2), với sự khác biệt trung bình: 0,13±0,2 cm2. Diện tích VHL đánh giá bằng SATQTQ 3D thấp hơn  diện tích VHL đánh giá bằng PHT (0,88±0,22 so với 1,03±0,2 cm2), với sự khác biệt trung bình là 0.15±0,21 cm2, sự khác biệt là rất có ý nghĩa với p< 0,001. Phương pháp SATQTQ 3D phát hiện vôi hóa mép van tốt hơn so với SATQTN 2D: 26,7% đánh giá bằng SATQTQ3D so với 13,3% bằng SATQTN 2D trong đánh giá vôi mép trước và 13,3% đánh giá bằng SATQTQ 3D so với 6,7% bằng SATQTN2D trong đánh giá vôi mép sau ( với p<0,05) . Không có sự khác biệt có ý nghĩa giữa hai phương pháp siêu âm SATQTN 2D và SATQTQ 2D trong việc đánh giá chênh áp tối đa, trung bình qua VHL và áp lực động mạch phổi tâm thu. Kết luận: Đánh giá diện tích VHL trên  SATQTQ3D nhỏ hơn diện tích VHL trên SATQTN 2D và phương pháp đánh giá qua thời gian bán giảm áp lực PHT. SATQTQ3D phát hiện dính và vôi mép van nhiều hơn so với SATQTN2D.
#Siêu âm tim 3D qua thực quản #hẹp van hai lá #nong van hai lá bằng bóng
ĐỐI CHIẾU KÍCH THƯỚC LỖ THÔNG LIÊN NHĨ TRÊN SIÊU ÂM 2D/3D QUA THỰC QUẢN VỚI ĐƯỜNG KÍNH EO CỦA DỤNG CỤ BÍT LỖ THÔNG LIÊN NHĨ TRÊN THÔNG TIM
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 525 Số 2 - 2023
Mở đầu: Thông liên nhĩ là một bệnh tim bẩm sinh thường gặp ở Việt Nam. Trong đó, thông liên nhĩ (TLN) kiểu lỗ thứ hai hay TLN lỗ thứ phát hay gặp nhất. Đây cũng chính là nhóm thông liên nhĩ có thể bít lỗ thông bằng dụng cụ qua da. Việc đánh giá chính xác hình dạng, kích thước, vị trí lỗ thông và mối liên quan giải phẫu với các tổ chức xung quanh trên siêu âm tim đóng vai trò quan trọng trong việc lựa chọn dụng cụ bít thông liên nhĩ phù hợp. Mục tiêu: Đối chiếu kích thước lỗ thông liên nhĩ trên siêu âm 2D/3D qua thực quản với đường kính eo của dụng cụ bít lỗ thông liên nhĩ trên thông tim. Đối tượng và phương pháp: Trong thời gian từ tháng 9/2017 đến tháng 8/2018 có tổng số 58 bệnh nhân (BN) được đưa vào nghiên cứu. Trong đó, tất cả các BN đều được làm siêu âm 2D qua thành ngực, siêu âm tim 2D/3D qua thực quản: có 54 BN được bít lỗ TLN bằng dụng cụ, 4 BN phải phẫu thuật vì có gờ lỗ thông quá ngắn. Kết quả: Có 47 BN nữ (81%), 11 BN nam (19%). Tuổi thấp nhất là: 16 tuổi, tuổi cao nhất là: 68 tuổi. ĐK lỗ TLN trên SATQTN 2D là: 21,06±6,11mm, ĐK lỗ TLN được xác định trên SATQTQ 2D là: 22,09±5,18mm, ĐK lỗ TLN được xác định trên SATQTQ 2D là: 23,47±4,29 mm, ĐK trung bình của lỗ TLN trên thông tim khi bơm bóng (sizing) là: 31,52±5,68mm. Có sự thay đổi lớn giữa hai thì, đường kính lớn nhất trung bình trong giai đoạn nhĩ trương là 23,75±5,63mm, cuối nhĩ thu là 17,34±5,87mm. So sánh nhóm SATQTQ 2D, SATQTQ 3D và kích thước khi bơm bóng sizing dụng cụ bít TLN, nhận thấy độ chênh lệch trên siêu âm và Sizing dụng cụ ở nhóm làm SATQTQ 3D thấp hơn so với nhóm SATQTQ 2D, sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê (p< 0,05). Kết luận: Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy hình thái TLN lỗ thứ hai biến đổi theo chu chuyển tim, lớn nhất ở thì nhĩ trương, nhỏ nhất ở cuối thời kỳ nhĩ thu. Kích thước lỗ TLN trên SATQTQ 3D và kích thước lỗ thông khi đo bằng bóng (sizing balloon) khá tương ứng với nhau và ước lượng sizing dụng cụ bít TLN trên SATQTQ 3D có giá trị chênh lệch với sizing dụng cụ (1,43±2,28mm) thấp hơn so với SATQTQ 2D (3,76±2,48mm), hỗ trợ rất tốt cho các bác sỹ can thiệp lựa chọn dụng cụ bít TLN phù hợp.
#Siêu âm tim qua thực quản 3D #thông liên nhĩ lỗ thứ hai #bít thông liên nhĩ
TRƯỜNG HỢP LÂM SÀNG KẸT VAN HAI LÁ CƠ HỌC SORIN BICARBON - VAI TRÒ CỦA SIÊU ÂM TIM 3D QUA THỰC QUẢN
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 525 Số 2 - 2023
Huyết khối van nhân tạo là một trong những nguyên nhân chính gây rối loạn hoạt động van nhân tạo, thậm chí có thể gây đe doạ tính mạng. Trong thực hành lâm sàng, việc tiếp cận toàn diện nhiều thông số về hình thái và chức năng van nhân tạo được đánh giá bằng siêu âm tim 2D/3D là chìa khoá để phát hiện và định lượng mức độ rối loạn chức năng van nhân tạo. Siêu âm tim qua thành ngực là phương thức đầu tiên để phát hiện huyết khối van nhân tạo nhưng ngay cả huyết khối lớn trên van nhân tạo cũng có thể bị bỏ sót hoặc đánh giá thấp hơn thực tế trong kết quả siêu âm tim ban đầu. Siêu âm tim 3D, đặc biệt là siêu âm tim qua thực quản 3D có thể cung cấp thêm thông tin và ngày càng được sử dụng rộng rãi. Chúng tôi trình bày một trường hợp lâm sàng là bệnh nhân nữ 72 tuổi được chẩn đoán kẹt van hai lá cơ học trên siêu âm tim 3D qua thực quản. Bệnh nhân đã được phẫu thuật cấp cứu thay lại van hai lá, tổn thương trong khi phẫu thuật là: van hai lá cơ học cũ, kẹt cứng 1 cánh van do huyết khối bám ở cả mặt thất và mặt nhĩ. Bệnh nhân được thay van hai lá sinh học St Jude số 23, sau đó ra viện với kết quả tốt. Siêu âm tim thực quản 3D theo thời gian thực là một thăm dò quan trọng để thu thập thêm thông tin về các cấu trúc tim trong không gian, và giúp quan sát trực quan các bệnh lý tim, đặc biệt là huyết khối van nhân tạo. Mặt cắt trực diện van hai lá nhìn từ tâm nhĩ trái là phương thức tốt nhất để chẩn đoán huyết khối. Việc sử dụng siêu âm tim 3D qua thực quản ở các bệnh nhân nghi ngờ kẹt van tim cơ học sẽ giúp chẩn đoán chính xác và đưa ra quyết định điều trị đúng, kịp thời bằng phẫu thuật hoặc thuốc tiêu huyết khối, giảm tỷ lệ tử vong cho người bệnh.
#siêu âm tim 3D qua thực quản #van cơ học #huyết khối van cơ học
Giá trị của siêu âm tim 3D qua thực quản trong đánh giá tổn thương tim ở bệnh nhân viêm nội tâm mạc nhiễm khuẩn-đối chiếu với kết quả phẫu thuật
Mục tiêu: Đối chiếu kết quả đánh giá tổn thương tim ở các bệnh nhân (BN) viêm nội tâm mạc nhiễm khuẩn (VNTMNK) bằng siêu âm tim 2D qua thành ngực (2DTTE), siêu âm tim 2D qua thực quản (2DTEE) và siêu âm tim 3D qua thực quản (3DTEE) với tiêu chuẩn vàng là kết quả phẫu thuật. Đối tượng và phương pháp: Trong thời gian từ 7/2019 đến 9/2020, tại Viện Tim mạch Việt Nam, Bệnh viện Bạch Mai, 40 BN được chẩn đoán VNTMNK được tiến hành 2DTTE, 2DTEE và 3DTEE, trong đó 27 BN được tiến hành phẫu thuật tim dưới tuần hoàn ngoài cơ thể, sau đó đối chiếu kết quả siêu âm với kết quả trong phẫu thuật. Kết quả: 3DTEE có độ nhạy phát hiện tổn thương sùi 96,2%, độ đặc hiệu 94,5%, độ phù hợp cao khi đối chiếu với phẫu thuật, Kappa: 0,889. Đối với tổn thương áp xe, độ nhạy 77,78%, độ đặc hiệu 94,44%, độ phù hợp của 3DTEE khá khi đối chiếu với phẫu thuật, Kappa: 0,743. Đối với tổn thương thủng rách van tim, 3DTEE có độ nhạy 72,7%, độ đặc hiệu 93%, độ phù hợp khá khi đối chiếu với phẫu thuật, Kappa: 0,658. Trong đánh giá tổn thương đứt dây chằng, 3D TEE có độ nhạy 100%, độ đặc hiệu 100% , độ phù hợp cao khi so sánh với phẫu thuật, Kappa: 1. Đa số các tổn thương được phát hiện trên 3DTEE có độ nhạy, độ đặc hiệu, Kappa cao hơn 2DTTE và 2DTEE khi đối chiếu với phẫu thuật. Kết luận: Siêu âm tim 3D qua thực quản giúp làm gia tăng giá trị chẩn đoán, cung cấp nhiều thông tin trong việc đánh giá, phát hiện các tổn thương trong tim ở bệnh nhân VNTMNK. Độ nhạy, độ đặc hiệu, giá trị dự đoán dương tính, âm tính phát hiện các tổn thương VNTMNK cao hơn so với siêu âm tim 2D qua thành ngực và siêu âm tim 2D qua thực quản.
#Viêm nội tâm mạc nhiễm khuẩn #siêu âm tim qua thành ngực #siêu âm tim 2D qua thực quản #siêu âm tim 3D qua thực quản
Đối chiếu kết quả khảo sát vòng van ba lá trên siêu âm tim 2D/3D qua thành ngực, qua thực quản với chụp cắt lớp vi tính ở bệnh nhân hở van ba lá nhiều
Hở van ba lá nhiều là một tình trạng bệnh lý nặng, là yếu tố dự báo độc lập tiên lượng tử vong. Đánh giá hình ảnh học của van ba lá luôn là vấn đề thách thức đối với các nhà hình ảnh học và lâm sàng để thu được kết quả chính xác về giải phẫu van, các đường kính vòng van, chu vi và diện tích vòng van từ đó giúp các phẫu thuật viên, các nhà can thiệp lựa chọn chiến lược và kích cỡ dụng cụ trong can thiệp và phẫu thuật. Mục tiêu: Đối chiếu kết quả khảo sát vòng van ba lá trên siêu âm tim 2D/3D qua thành ngực, qua thực quản với chụp cắt lớp vi tính ở bệnh nhân hở van ba lá nhiều. Đối tượng và phương pháp: Các bệnh nhân được chẩn đoán có hở van ba lá mức độ nhiều theo khuyến cáo của Hội Siêu Âm Tim Hoa Kỳ, có kèm hoặc không các tổn thương van tim khác tại Viện Tim Mạch - Bệnh Viện Bạch Mai được chụp cắt lớp vi tính 256 dãy động mạch vành trước phẫu thuật và có hiển thị hình ảnh van ba lá rõ ràng được đưa vào nghiên cứu. Tất cả các bệnh nhân đều được siêu âm tim qua thành ngực 2D/3D và siêu âm tim qua thực quản 3D chụp cắt lớp vi tính 256 dãy khảo sát các thông số đánh giá đường kính trục chính, đường kính trục phụ, chu vi, diện tích vòng van ba lá.  Kết quả: Từ tháng 08/2019 đến tháng 09/2020, 40 bệnh nhân (tuổi 54,9 ± 16,9, tần số tim 84,6 ± 12,5 chu kỳ/phút, huyết áp tâm thu và huyết áp tâm trương tương ứng là 109,9 ± 20,5 và 70,0 ± 8,3 mmHg, nữ chiếm 57,5%, nam chiếm 42,5%) được đưa vào nghiên cứu. Đường kính vòng van ba lá đo trên siêu âm tim qua thành ngực 2D nhỏ hơn khi đo trên chụp cắt lớp vi tính ở cả mặt cắt 4 buồng và mặt cắt trục ngắn (40,5 ± 7,2 mm so với 43,3 ± 13,5 mm, và 32,6 ± 7,4mm so với 38,0 ± 12,4mm, p < 0,05). Đường kính vòng van ba lá trên mặt cắt 4 buồng (trục chính) đo trên siêu âm tim qua thành ngực 3D và siêu âm tim qua thực quản 3D lần lượt là 42,8 ± 7,1 mm và 43,6 ± 7,4mm không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê so với các đường kính đo trên chụp cắt lớp vi tính 256 dãy là 43,3 ± 13,5 mm, p > 0,05. [1]Đường kính trục ngắn (trục phụ) đo trên siêu âm tim qua thành ngực 3D và siêu âm tim qua thực quản 3D lần lượt là 35,7 ± 6,1 mm và 39,1 ± 7,6 mm, và không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với đường kính đo trên chụp cắt lớp vi tính là 38,0 ± 12,4 mm, p > 0,05. Có mối tương quan tuyến tính thuận chặt chẽ giữa chu vi vòng VBL đo trên siêu âm tim qua thành ngực 3D và siêu âm tim qua thực quản 3D với đo trên chụp cắt lớp vi tính, tương ứng r = 0,62, p < 0,05 và r = 0,54, p < 0,05. Có mối tương quan tuyến tính thuận rất chặt chẽ giữa diện tích vòng van ba lá đo trên siêu âm tim qua thành ngực 3D và siêu âm tim qua thực quản 3D với đo trên chụp cắt lớp vi tính, tương ứng r = 0,87, p < 0,05 và r = 0,89, p < 0,05. Kết luận: Kích thước vòng van ba lá đo trên siêu âm tim qua thành ngực 3D và siêu âm tim qua thực quản 3D có tương quan chặt chẽ với kích thước vòng van ba lá đánh giá trên chụp cắt lớp vi tính.
#Hở van ba lá #vòng van ba lá # #siêu âm tim qua thành ngực 3D #siêu âm tim qua thực quản 3D #chụp cắt lớp vi tính
Tổng số: 6   
  • 1